Có đủ vitamin D giúp cơ thể hấp thu canxi, chống n.hiễm t.rùng và giữ cho hệ thần kinh và cơ bắp hoạt động bình thường.
Tuy nhiên, một số người khó hấp thu vitamin D hơn người khác và một số bệnh lý có thể ngăn cản cơ chế tiếp nhận dưỡng chất quan trọng này của cơ thể.
Bài Viết Liên Quan
- Những biểu hiện dễ thấy nhất của bệnh xơ gan
- Tự pha nước súc miệng như thế nào cho chuẩn?
- Người dùng điện thoại thường xuyên rất dễ gặp 7 kiểu chấn thương này: Đau khớp, hại mắt, ảnh hưởng không nhẹ tới cột sống
Chúng ta có thể tăng cường hấp thu vitamin D bằng cách phơi nắng sáng, ăn cá béo và uống thuốc bổ sung chất này. Ảnh: Pansport
Theo chuyên gia dinh dưỡng Melissa Perst thuộc Học viện Dinh dưỡng và Chế độ ăn uống (Mỹ), thiếu vitamin D là một vấn đề sức khỏe đáng lo ngại “vì nó làm tăng nguy cơ bị gãy xương, loãng xương và yếu cơ”. Bà cho biết có hai cách chủ yếu để chúng ta hấp thu vitamin D là từ thực phẩm hoặc chất bổ sung và ánh nắng.
Cụ thể, sau khi bạn ăn thức ăn hoặc uống thuốc bổ sung vitamin D, cơ thể sẽ tích trữ nó trong các tế bào mỡ. ến khi cơ thể cần dùng, gan và thận sẽ chuyển đổi vitamin D dự trữ thành một hoạt chất gọi là calcitriol, thông qua một quá trình gọi là hydroxyl hóa.
Trong khi đó, tiếp xúc với ánh nắng giúp cơ thể tổng hợp vitamin D bằng cách kích hoạt một loại cholesterol có trong cơ thể gọi là 7-dehydrocholesterol, thúc đẩy quá trình sản xuất và vận chuyển dưỡng chất này đến gan và thận, giống như sau khi bạn ăn thực phẩm chứa vitamin D.
Những yếu tố cản trở việc hấp thu vitamin D
Một số yếu tố có thể làm giảm hoặc ngăn chặn cơ thể hấp thu vitamin D gồm bệnh celiac (chứng không dung nạp gluten), viêm tụy mãn tính, viêm ruột từng vùng ( bệnh Crohn) và xơ nang. Những bệnh này đều có thể ảnh hưởng đến ruột, ngăn chúng hấp thu vitamin D trong thực phẩm.
Chỉ số khối cơ thể (BMI) trên 30 – tức béo phì. Mỡ thừa dưới da có thể cô lập hoặc bẫy vitamin D, đó là lý do tại sao thiếu hụt là mối quan tâm lớn ở những người béo phì.
Bệnh gan hoặc thận. Cả hai bệnh này đều ảnh hưởng tiêu cực đến cách cơ thể xử lý vitamin D. Cụ thể, bệnh thận có thể khiến cơ thể khó biến đổi vitamin D thành dạng hoạt động calcitriol để dùng khắp cơ thể, trong khi một số dạng bệnh gan gây ra các vấn đề về hấp thu chất béo, cũng như cản trở việc hấp thụ vitamin D.
iều trị bức xạ. Phương pháp điều trị ung thư này có thể khiến ruột khó hấp thu vitamin D.
Phẫu thuật giảm cân. Các biện pháp phẫu thuật làm giảm kích thước của dạ dày hoặc cắt bỏ một phần ruột non cũng khiến cơ thể khó tiêu thụ đủ lượng vitamin và khoáng chất, gồm cả vitamin D.
Ngoài ra, chuyên gia dinh dưỡng Antonette Hardie tại Trung tâm Y tế Wexner ại học Bang Ohio cho biết một số loại thuốc cũng có thể tác động hoặc ức chế sự hấp thu vitamin D, bao gồm: thuốc chống viêm steroid dùng đường uống, thuốc giảm cân Orlistat, thuốc hạ mỡ m.áu statin, thuốc lợi tiểu.
Một số triệu chứng báo hiệu cơ thể thiếu vitamin D là mệt mỏi toàn thân, đau nhức cơ, tâm trạng thay đổi thất thường và đau xương khớp. Cách nhanh nhất để xác định cơ thể có bị thiếu vitamin D hay không là nhờ bác sĩ xét nghiệm m.áu. Theo Viện Y tế Quốc gia Mỹ, với một người trưởng thành khỏe mạnh, nồng độ vitamin D bình thường dao động trong khoảng 12-20 nanogram/ml. Trái lại, nồng độ dưới 12 nanogram/ml nghĩa là thiếu hụt vitamin D và có thể là dấu hiệu của việc kém hấp thu chất này.
Giải pháp tăng cường hấp thu vitamin D
Nếu gặp vấn đề về hấp thu vitamin D, chuyên gia Melissa Perst khuyến nghị nên tăng cường các thực phẩm giàu chất béo và giàu magiê.
Vì vitamin D hòa tan trong chất béo nên việc ăn cùng với các thực phẩm béo có thể giúp cơ thể hấp thu và dự trữ nó để sử dụng trong tương lai tốt hơn. Bà cho biết thực phẩm béo cũng chứa nhiều vitamin D, nhất là các loại cá béo (cá hồi, cá nục, cá thu…), lòng đỏ trứng, các loại hạt (hạnh nhân, óc chó, mắc ca…), sữa bổ sung vitamin D và các chế phẩm từ sữa béo. Kết hợp thực phẩm cung cấp vitamin D với thực phẩm tự nhiên giàu magiê (hạt bí, hạnh nhân, trái bơ) còn giúp tăng khả năng hấp thu.
Theo bà Perst, mặc dù bổ sung vitamin D từ thực phẩm toàn phần là cách tốt nhất, nhưng nếu cần thiết, người bị thiếu hụt chất này có thể dùng thuốc bổ sung với sự tư vấn của bác sĩ. ể tránh nguy cơ ngộ độc vitamin D, các bác sĩ thường kê đơn liều cao chỉ trong thời gian ngắn.
Điều gì sẽ xảy ra với cơ thể nếu chúng ta không uống sữa
Cùng tìm hiểu xem khi không uống sữa nữa cơ thể chúng ta sẽ thay đổi như thế nào!
1. Bạn có thể hết đau đầu
Các sản phẩm từ sữa có thể là tác nhân gây ra chứng đau nửa đầu. Vì vậy, nếu bạn không căng thẳng, ngủ ngon và hạn chế uống cà phê, nhưng vẫn bị đau đầu, thì sữa có thể là lý do. Cố gắng ngừng uống sữa, và chứng đau nửa đầu của bạn có thể biến mất.
2. Cảm xúc của bạn ổn định hơn
Có nhiều hormone trong sữa có thể xung đột với hormone trong cơ thể bạn. Khi các hormone này trộn lẫn với nhau sẽ khiến tâm trạng thất thường. Vì vậy, nếu bạn ngừng uống sữa, bạn sẽ không tiếp xúc với những hormone bổ sung này và cảm xúc sẽ ổn định hơn.
3. Bạn sẽ không cảm thấy đầy hơi
Theo các nghiên cứu, 65% người lớn bị giảm khả năng tiêu hóa lactose. Nếu bạn bị đầy hơi, tiêu chảy khi uống sữa, có khả năng bạn là một trong những người không dung nạp lactose. Khi bị tình trạng này bạn hãy hạn chế sử dụng các sản phẩm từ sữa.
4. Da bạn có thể sáng lên
Những người nhạy cảm với sữa nhưng vẫn uống sữa có khả năng bị nổi mụn. Hóa ra, các sản phẩm từ sữa có chứa các hormone khác nhau kích thích nổi mụn trứng cá. Vì vậy, nếu bạn gặp vấn đề này, hãy cố gắng điều chỉnh chế độ ăn uống và không uống sữa.
5. Bạn có thể bỏ lỡ các chất dinh dưỡng cần thiết
Tuy nhiên, sữa lại giàu canxi, protein và vitamin D và B12. Đây là những chất quan trọng nhất đối với sự phát triển của trẻ nhỏ và thanh thiếu niên. Nếu không uống sữa, bạn có thể dễ bị ốm hơn. Vì vậy, nếu bạn quyết định không uống sữa, hãy cố gắng thay thế sữa bằng các sản phẩm khác giàu dinh dưỡng như cá mòi, cá hồi và sữa có nguồn gốc thực vật.